Mạc Nhạ Nhất Xưng Siêu Thập Địa
Hòa Thượng Phổ Quang (Thích Thiện Huệ)
Trong căn phòng ngài Ấn Quang tổ thứ 13 của Liên tông trú ngụ hơn 30 năm tại chùa Pháp Vũ ở Phổ Đà sơn có hai câu đối liễn:
Mạc nhạ nhất xưng siêu thập địa
Tu tri lục tự quát tam thừa
Có nghĩa đừng ngạc nhiên chỉ một câu xưng danh lại vượt qua thập địa, (vì) phải biết 6 chữ (nam mô A Di Đà Phật) này bao quát hết tam thừa.
Phần đông hiểu theo nghĩa phổ thông tức y theo văn tự câu cú mà suy diễn thì có nghĩa như sau :
Chữ xưng có nghĩa là xưng tán và cũng có nghĩa là xưng danh (niệm). Ý nói đừng ngạc nhiên vì sao chỉ một câu xưng tán hay xưng danh Phật lại siêu việt thập địa, là vì 6 chữ Nam mô A Di Đà Phật bao trọn hết cả ba thừa.
Hai câu này đề cao gía trị của sự xưng danh lẫn sự xưng tán đức Phật Di Đà là tối thượng, vừa vượt qua thập địa vừa nắm hết cả 3 thừa.
Nếu chỉ hiểu theo cú tất nhiên chỉ cần niệm lục tự khỏi cần tu niệm gì nữa, vì nhất xưng là bao quát tam thừa lại siêu thập địa thì tu thêm gì nữa cũng là tu thừa (dư tu), nên số đông hành gỉa tu niệm Phật pháp môn chủ trương vô dư tu theo ngài Thiện Đạo, chỉ chuyên tu xưng Phật danh.
Thế nhưng mặc dù nói nhất xưng là chỉ cần một câu niệm danh Phật cũng đủ siêu thập địa, quát tam thừa, song thực tế thì e niệm đến muôn xưng cũng chưa siêu nổi cái địa vị phàm phu hiện tại nói gì đến thập địa. Như thế phải chăng hai câu này chỉ là hư vọng không thật, dối gạt thiên hạ? Hẳn nhiên chư Tổ sư cùng các cao tăng thạc đức không hề nói lời hư vọng lừa dối chúng sinh. Đức Phật dậy y nghĩa bất y cú, cú chỉ là ngón tay chỉ trăng, trăng mới là thật nghĩa, chúng ta cần nương ngón tay “cú” này để hiểu trăng “nghĩa”.
A. Giải thích hai chữ nhất xưng.
Chữ xưng bao gồm hai nghĩa : xưng hồng danh Phật và xưng tán Phật công đức trí huệ. Gọi là xưng hồng danh Phật tất nêu rõ danh Phật khác với phổ thông danh như tên của các chúng sinh, vì chúng sinh vốn không có mảy may công đức nên không gọi là hồng danh được. Hồng có nghĩa to lớn bao la.
Khi niệm danh Phật hẳn nhiên khác với niệm thế tục danh, vì 2 lý do chính yếu. Thứ nhất vì Phật danh bao quát công đức thượng cầu hạ hóa, cùng nhất thiết công đức vô lậu giải thoát nên gọi là hồng danh. Niệm hồng danh để tâm thanh tịnh mở bầy công đức vô lậu. Thứ hai vì niệm hồng danh Phật trừ diệt được tham sân ngã chấp, tăng thượng duyên với Phật và cảnh giới thanh tịnh. Tóm lại niệm Phật hàm nghĩa niệm “hồng danh Phật” và niệm “công đức vô lậu” của Phật.
Nếu trong mỗi một niệm “niệm danh Phật” không hề bao quát niệm “hồng danh” và “công đức” chỉ thuần gọi tên Phật thì thật vô nghĩa. Chẳng khác Giáp cả ngày ngồi niệm Phật, bỗng có Ất đến bên cạnh “niệm Giáp” liên tục, chẳng bao lâu Giáp rối loạn bực dọc mắng “tôi nợ nần gì anh mà réo tôi hoài vậy?” Ất nói “tôi réo tên anh mới dăm phút anh đã bực dọc, huống hồ anh réo tên Phật ngày này qua ngày khác, hẳn là Phật phiền lắm đó”. Như thế niệm danh Phật suông mà không niệm hồng danh bao hàm công đức vô lậu giải thoát của Phật thì “niệm” khác nào “réo”. Chính vì lẽ này mà một câu niệm Phật của Tổ sư bằng vạn câu niệm Phật xin tiền của người ăn mày trước cổng chùa.
Câu “nhất xưng siêu thập địa” hẳn nhiên phải mang ý nghĩa xưng hồng danh Phật, cũng chính là xưng tán hồng danh Phật, hoặc gỉa xưng tán Như Lai bằng cách niệm hồng danh chư Phật.
Nhất xưng “lục tự” siêu thập địa quát tam thừa cốt để nhắc nhở người niệm Phật niệm niệm không quên hồng danh chư Phật có những hồng đức, hồng ân mà ngoài chư Phật ra không một chúng sinh hay quỷ thần nào có được, chứ không hề chỉ khoa trương cho chúng sinh “khoái chí” phát tâm xưng Phật danh để không cần phát tâm bồ đề hành bồ tát đạo mà vẫn siêu việt thập địa và bao quát tam thừa. Phàm nhân do tham lam nên y cú hiểu theo nghĩa tham. Nếu chỉ niệm theo lối réo tên gọi Phật thì niệm khan cả cổ cũng không vượt nổi cảnh giới tham dục của mình, chung cục sau khi mạng chung vẫn được nghiệp tham dục tiếp dẫn “vãng sinh” về dục giới như cũ. Xưng danh Phật với đầy đủ công đức bao la vô tận (hồng đức) hẳn nhiên sẽ vượt thập địa và bao quát tam thừa, điều này không chút sai trái với nhân quả.
Nhất xưng vừa có nghĩa là một câu xưng danh lại vừa hàm nghĩa nhất tâm bất loạn xưng danh. Chính xác là mỗi một niệm đều nhất tâm. Thế nào là nhất tâm? Tâm là năng xưng niệm, Phật là sở xưng niệm. Năng niệm sở niệm tính không tịch tất cảm ứng đạo giao nan tư nghì. Năng niệm và sở niệm bản tính vốn không tịch. Năng niệm tức ngã, ngã vốn không chủ thể từ nhân duyên sinh, như người trong mộng, do mộng duyên sinh, khi tỉnh giác tất người và mộng đều không còn, nên nói ngã tức “năng niệm tính không tịch”. Vô ngã thành Phật nên Phật vốn vô ngã, như vậy sở niệm tức Phật, bản tính cũng không tịch. Năng sở đều không tịch nên cảm ứng giữa năng sở thật khó nghĩ bàn, năng sở không hai, năng không khác sở, sở không khác năng, năng chính là sở, sở chính là năng, năng sở bất nhị, tâm Phật không hai, gọi là nhất tâm xưng danh hay niệm Phật tam muội. Thiền tông gọi là tức tâm tức Phật, Liên tông gọi đó là nhất tâm bất loạn niệm Phật. Ở đây nói là nhất xưng siêu thập địa, vì tâm tức Phật, Phật tức tâm tất nhiên phải siêu thập địa.
B. Vạn đức hồng danh
Sở dĩ niệm Phật có công đức chung quy cũng bởi Phật danh do vô lượng công đức hợp thành, song tựu chung được phân làm hai thứ công đức chủ yếu đó là công đức thượng cầu của trí huệ và công đức hạ hóa của từ bi. Trí huệ thượng cầu đưa đến sự giải thoát cho bản thân. Từ bi hạ hóa mang lại sự giải thoát cho nhất thiết chúng sinh. Ngoài trí huệ và từ bi không một phúc đức thế gian nào có được sự giải thoát cho ta và chúng sinh.
Khác biệt giữa công đức và phúc đức.
Phúc đức là thiện báo trong tam giới. Công đức là sự giải thoát khỏi luân hồi sinh tử trong tam giới. Phúc đức là thiện báo nhất thời trong cõi sinh tử, công đức là phúc đức thù thắng không cùng tận xa lìa sinh tử. Nói chung phúc đức tất hữu lậu, công đức thời vô lậu. Phúc đức bảo vệ ngã trong tam giới, công đức xả ngã thoát khỏi tam giới.
Trong phúc đức hãy còn mầm họa, nơi công đức diệt sạch mọi phúc họa. Còn phúc tất còn họa như Lão tữ nói “họa hề! phúc chi sở ỷ. Phúc hề! họa chi sở phục. Thục tri kì cực! Kì vô chính dã” họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ núp của họa, không ai biết được chỗ cùng tận của chúng, vì không thể xác định chính xác được chúng. Tìm phúc đức trong các việc từ thiện ở thế gian, còn tìm công đức ở chốn nào? Thiền tông Lục tổ Huệ Năng dậy “Tạo tự độ tăng, bố thí thiết trai danh vi cầu phúc, bất khả tương phúc tiện vi công đức. Công đức tại pháp thân trung bất tại tu phúc” xây chùa độ tăng, bố thí trai tăng đều là tu phúc, không được coi phúc là công đức. Công đức ở ngay trong pháp thân mà không ở nơi tu phúc. Pháp thân do công đức từ trí thượng cầu và bi hạ hóa kết thành, khác với sắc thân vọng ngã do nghiệp tham sân si chiêu cảm tạo nên. Vì vậy Thiền tông Ngũ tổ Hoằng Nhẫn khuyên “Nhữ đẳng chung nhật chỉ cầu phúc điền, bất cầu xuất ly khổ hải sinh tử, tự tính nhược mê phúc hà khả cứu” các vị cả ngày lo tu phúc, không lo cầu thoát ly biển khổ sinh tử, tự tính nếu mê rồi thì phúc nào cứu nổi. Phúc họa chỉ là huyễn cảnh của vọng ngã, không thể đưa chúng sinh tới cảnh giải thoát. Trái lại công đức thù thắng xa lìa vọng ngã và mọi phúc báo hư huyễn của nó.
Vì lẽ này đức Thế Tôn thường khuyên bảo nên tu tập công đức để giải thoát cho ta và người, nhưng thế nào là tu công đức? Lục tổ Huệ Năng trả lời “Tự tu tính thị công, tự tu thân thị đức” tự tu (tâm) tính là công, tự tu thân là đức. Song thế nào là tu tính và thế nào là tu thân? Lục tổ đáp “Kiến tính thị công. Bình đẳng thị đức” thấy tính là công, bình đẳng là đức. Như vậy tu tính là làm thế nào để thấy được Phật tính bản lai nơi tâm (kiến tính), tu thân là nhất thiết chúng sinh bình đẳng, ai cũng có Phật tính, do đó thấy ta và người không sai khác, giải thoát cho chúng sinh chính là giải thoát cho tự thân, nên thường “đương nguyện chúng sinh”. Tu tính nên khai triển Phật tính ở tự tâm vốn sẵn có, thuộc về tu tập trí huệ thượng cầu. Tu thân nên phát huy sự độ sinh bình đẳng đến với muôn loài, (cần lưu ý muôn loài bao quát tam giới sáu đường, không chỉ chú trọng nhân loại), thuộc về tu tập từ bi hạ hóa. Khai triển Phật tính nên ngộ nhập Phật tri kiến, diệt sạch căn bản vô minh thành tựu trí huệ “vô lượng quang”. Quảng phát từ bi bình đẳng độ vô lượng chúng sinh giải thoát luân hồi sinh tử đồng thành thân “vô lượng thọ”.
Nhờ tu tính thành tựu “vô lượng quang”, do tu thân đắc quả “vô lượng thọ”. Tâm vô lượng quang, thân vô lượng thọ. Tâm quang thân thọ mới chính thật là vô lượng công đức hay công đức vô lậu. Ngoài công đức tu tập này không một phúc báo nào thuộc thế gian đạt được quang thọ cho ta và nhất thiết chúng sinh. Vì vậy Ngũ tổ mới kết luận “tự tính nhược mê, phúc hà khả cứu”, một khi tự tính tức Phật tính bị lãng quên bởi vọng tâm vô minh thì có tạo phúc đến mấy đi nữa cũng không ra khỏi thân sinh tử luân hồi của vọng ngã.
Trở Lại Đầu Trang